Ngày 21/5, tại TP. Cao Lãnh (Đồng Tháp), Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức Diễn đàn “Bảo tồn thiên nhiên và văn hóa vì phát triển bền vững ĐBSCL” lần 4/2012. Tại diễn đàn này, các đại biểu tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò hết sức quan trọng của đất ngập nước (ĐNN) đối với sự phát triển bền vững của “vựa lúa”. Nhưng nhiều ý kiến lo ngại trước tác động biến đổi khí hậu, sự phát triển thủy điện vùng thượng nguồn sông Mekong, cũng như sức ép từ đô thị hóa tăng dân số, các vùng ĐNN đang có nguy cơ “sa mạc hóa”.
Trong 2 thập niên gần đây, quá trình phát triển kinh tế-xã hội nhanh, cũng như ảnh hưởng biến đổi khí hậu đã tác động không nhỏ đến đa dạng sinh học (ĐDSH) nói chung và hệ sinh thái ĐNN vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Dự báo, đến năm 2075, khi nước biển dâng cao 50cm, ĐBSCL sẽ có 10,55% diện tích tự nhiên bị ngập, nhiều vùng đồng bằng nước ngọt bị nhiễm mặn. Vấn đề càng đáng lo hơn khi trào lưu sử dụng tài nguyên nước để phát triển thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong đang và sẽ làm tăng nguy cơ xâm nhập mặn.
Theo TS. Nguyễn Chí Thành, GĐ Trung tâm Nghiên cứu rừng và ĐNN, đến nay chưa có công trình nào kiểm kê, xác định ĐBSCL có bao nhiêu diện tích ĐNN tự nhiên theo quy định của Luật ĐDSH. Một điều rất dễ nhận thấy là phần lớn các hệ sinh thái ở đây không còn phát triển theo quy luật nên rất khó khăn để tìm ra những diện tích ĐNN tự nhiên ở ĐBSCL, ngoại trừ 105 nghìn ha là diện tích các khu vườn đặc dụng (gồm 5 vườn quốc gia, 7 khu bảo tồn thiên nhiên, 7 khu bảo vệ cảnh quan và 1 khu thực nghiệm khoa học) chiếm 2,7% tổng diện tích tự nhiên toàn vùng.
Tại diễn đàn, nhiều ý kiến cho rằng, từ nhiều năm nay, các cơ quan quản lý ở cấp Trung ương thường chỉ quan tâm giá trị và tầm quan trọng của ĐNN mà chưa xây dựng được tiêu chuẩn và tiêu chí để bộ máy chuyên trách hoạt động hiệu quả. Các cấp ngành, địa phương cũng chưa xây dựng được hành lang pháp lý cho các khái niệm nền tảng trong bảo vệ ĐNN như phạm vi và quy mô vùng đệm….
Chỉ tính riêng về thiết bị điều tra, kiểm kê, theo dõi, quan sát về ĐDSH tại các Ban Quản lí vùng ĐNN cũng đã và đang rất thiếu và chưa trở thành hạng mục được đầu tư thường xuyên. Trong khi đó, phần lớn vườn đặc dụng nằm ở các tỉnh nghèo nên khó có thể trông cậy vào nguồn ngân sách địa phương.
Theo nhiều chuyên gia, đã đến lúc Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng chiến lược chặn đứng nguy cơ các vùng ĐNN ở ĐBSCL bị “sa mạc hóa”. Hai Bộ này cũng cần phối hợp xây dựng quy chế quản lý bền vững khu bảo tồn ĐNN phù hợp với từng vùng sinh thái.
Công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò của ĐNN trong nhân dân cũng cần được đẩy mạnh. Một thực tế là hiện nay, chỉ có một số cơ quan Trung ương và các nhà khoa học biết về ĐNN. Điều này chẳng khác nào cây thiếu gốc, rễ. Vì vậy, chỉ khi làm cho toàn xã hội biết về ĐNN thì khi đó công tác quản lý hệ sinh thái này mới có hiệu quả và bền vững.
Bài và ảnh: Hạnh Nguyên |